CHUYỆN VỀ CUỐN SÁCH VE CHAI - Tác giả Nguyễn Thông
,
Mấy hôm rồi, đầu tiên
ông Phạm Xuân Nguyên có chút than thở về việc cuốn sách tặng bị hồi cố, sau đó
bác nhà văn Tạ Duy Anh cũng biên nhời bàn thêm. Vụ này kể ra cũng khó nói. Nhà
cháu chỉ nhân đây kể lại chuyện số phận long đong của một cuốn sách, như một
lời gửi đến bác Nguyên rằng chả nên lấy làm buồn, bác ạ.
Nhớ lần đến chơi
nhà ông bạn gàn Cao Tự Thanh. Chỗ trọ 2 gian của y trên giời dưới sách. Là kẻ
mê sách nhưng lâu nay ít đọc, phần bận cuộc mưu sinh, phần nhiễm phải cái thói
cứ động một tí là lụy vi tính, internet nên đã lâu tôi chẳng mấy khi cầm cuốn
sách nào được đến mươi phút (nhưng vừa rồi với sách của Phan Thúy Hà thì khác,
những cuốn Gia đình, Đừng kể tên tôi, Những ghi chép của các anh, Qua khỏi dốc là nhà... thì cứ phải
đọc một mạch - câu này vừa biên thêm). Đang tâm thái ấy, trong lúc ký giả Xuân
Ba và Cao tiên sinh đang say sưa đàm đạo, bất chợt nhìn lên giá sách tôi rút
một cuốn cũ kỹ khổ bằng bàn tay, giấy ố vàng, bốn góc bìa nát nham nhở. Lật vài
trang thấy toàn chữ Hán viết đủ kiểu chân, triện, lệ, hành, thảo kèm theo những
bức tranh vẽ theo phong cách thủy mặc cực đẹp. Chủ nhà đang say với bạn tri kỷ,
thấy tôi cầm cuốn sách quý của mình dáng điệu thờ ơ bất cẩn liền hắng giọng “mày có biết đang cầm cái gì trên tay không?”.
Biết hỏi kẻ sở học nông cạn như tôi kể bằng thừa, lão hàn nho giảng giải: xét
tuổi, hai cuốn này (thì ra còn một cuốn nữa tôi không để ý) dễ đã hơn trăm năm,
còn chủ nhân đích thực của nó, là ai biết không, Phạm Quỳnh đ.â.ấ.y (y dài
giọng)!
Tôi lật giở, ừ nhỉ,
trên mỗi trang bìa sau bằng loại giấy na ná giấy xi măng vẫn nguyên chữ ký chân
phương giản dị của cụ Thượng Chi, màu mực tím, đậm và rõ. Nét chữ mềm mại, kiểu
chữ đặc trưng thế hệ Tây học những năm trước cách mạng không lẫn vào đâu được.
Nhẩm tính chỉ từ hồi cụ chủ bút báo Nam Phong ký xác nhận quyền sở hữu của mình
vào cuốn sách đến nay chí ít phải bảy tám chục năm, vậy sao thứ mực tím tôi
chắc là mực Parker kia phóng qua ngòi bút sắt cứ như vừa mới thấm khô, dễ làm
ta tưởng tượng người ký dòng chữ ấy mới nhấc ngọn bút khỏi trang giấy bản rồi
khoan thai bước đâu đó nhẩm mấy câu thơ trong sách mà khen cái sự tuyệt hảo của
người xưa.
Lại nhớ lứa chúng
tôi sinh ra sau hòa bình lập lại hồi học cấp 3 được các thầy giảng về cuộc
tranh luận quanh truyện Kiều,
cũng chỉ được học duy nhất bài "Luận
về chánh học cùng tà thuyết" của cụ Ngô Đức Kế, tranh luận với cụ
Phạm Quỳnh, chứ có thấy trước tác của cụ Phạm đầu đuôi nó thế nào, nghe thì tạm
hiểu rằng “chánh học” đương nhiên thuộc về cụ nghè Ngô - nhà nho yêu nước, còn
“tà thuyết” ắt phải là Phạm Quỳnh - người làm quan đến chức Thượng thư bộ Học,
rồi sau đó bộ Lại của "triều đình tay sai phản động". Sau này khi
cuộc sống đã cởi mở, tìm hiểu những khúc nhôi chưa tỏ về con người lịch sử này
ta biết ông bị kết thúc số phận cá nhân thật bi đát và lịch sử xứ ta kể từ sau
cách mạng chưa hề công bằng với ông.
Mấy lần lão nhà văn
Thái Vũ ghé tòa soạn Thanh Niên chơi, tôi lân la hỏi được ông lão kể lại, dù
làm quan chức trọng quyền cao tột bậc nhưng sau ngày Nhật đảo chính Pháp
(9.3.1945) cụ Phạm về ở ẩn tại biệt thự Hoa Đường bên sông đào Phủ Cam (Huế) và
trong cơn sục sôi cách mạng đánh Pháp đuổi Nhật hạ bệ Nam triều, ngày 23.8.1945
cựu Lại bộ thượng thư Phạm Quỳnh bị một nhóm thanh niên Việt Minh đến nhà “mời”
đi, cùng lúc là cả cha con ông Ngô Đình Khôi (Tổng đốc Quảng Nam, anh ruột ông
Ngô Đình Diệm), kể từ đó họ mãi mãi không trở về.
Lại nói về bộ sách
quý. Biết tôi mù chữ Hán, ông bạn họ Cao giảng giải bộ này gồm 6 cuốn (Cao tiên
sinh mới có 4 cuốn đóng gộp thành 2 tập, còn vì sao thiếu 2 cuốn tôi sẽ nói
sau) tên gọi Thi họa phảng (Thuyền thi họa), thứ tự các cuốn từ 1 đến 6 theo
chủ đề là: Sơn thủy, Nhân vật, Hoa điểu, Thảo tùng, Mai lan trúc cúc, Phiến
phổ. Khổ sách nhỏ, 17x10cm, giống loại sách thiếu nhi khá phổ biến của Nhà xuất
bản Kim Đồng, giấy bản mịn, do một Nhà xuất bản nào đó của Trung Quốc ấn hành
không thấy đề tên nhưng ghi rõ năm xuất bản Quang Tự Mậu Tý, nếu cứ chiếu theo
đời vua Quang Tự nhà Thanh thì vào năm 1888. Tính đến Mậu Tý 2008 vậy bộ sách
này đã thọ ngoại bách tuế, chính xác là 120 tuổi (còn giờ năm 2022 thì 134
tuổi).
Tôi săm soi lật kỹ
thấy phía dưới chữ ký mềm mại của cụ Thượng Chi còn có con dấu tròn son đỏ, ghi
rõ: phía trên Quốc gia Việt Nam, phía dưới Trung Phần trong vòng tròn bao bọc,
chính giữa là hai chữ đậm hơn: Văn Hóa. Tôi thắc mắc, Cao tiên sinh giải thích
chỉ có dưới trào Ngô Đình Diệm mới dùng danh từ Trung Phần để chỉ miền trung
Việt Nam. Đây có lẽ là con dấu của một cơ quan lưu trữ hoặc thư viện nào đó hồi
Ngô Đình Cẩn thay mặt chính quyền họ Ngô cai trị xứ Huế. Phải chăng sau cơn gia
biến tang thương ngày 23.8 ở biệt thự Hoa Đường, gia đình cụ Phạm thượng thư
phút chốc nát tan mỗi người mỗi ngả, đến thân mạng còn không giữ được nói chi
sách vở.
Nhà văn Thái Vũ kể
sau này có hỏi ông Phan Hàm (khi ấy là thanh niên tiền tuyến của Việt Minh, về
sau lên đến cấp tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam) người trực tiếp chỉ huy việc
bắt Phạm Quỳnh, ông Hàm cho biết đã khám xét khá kỹ căn biệt thự, kể cả những
tủ sách. Vậy thì những cuốn sách mà chủ nhân từng vẩy bút đặt lên chữ ký mực
tím Parker tươi rói bắt đầu chặng đường lưu lạc từ đây chăng? Khi Ngô Đình Cẩn
làm lãnh chúa Trung phần, ông ta từng cho sưu tầm thu gom nhiều di sản văn hóa
cổ, trong đó có các tác phẩm Hán Nôm quý hiếm để nhà nước quản lý, lưu trữ, vì
thế mới có con dấu tròn Văn Hóa ấy.
Nhưng tại sao sách
quý lại lưu lạc đến nhà bạn tôi? Hàn nho Cao Tự Thanh thuật lại rằng giữa năm
1975 y đang học năm thứ ba ngành Hán Nôm khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội thì miền Nam giải phóng, nôn nóng quá bèn bỏ dở chừng vào ngay Sài Gòn
(chuyện này tôi biết bởi tôi cùng khóa với y, chỉ khác ngành học). Một trưa
cuối năm trong túi chỉ có 300 đồng tiền chế độ cũ đủ để ăn sáng vài bữa, đang
lang thang thì gặp bà cụ quẩy gánh ve chai đi về chợ sách cũ Đặng Thị Nhu (Q.1)
gần chợ Bến Thành. Thấy trong đống lộn xộn sách cũ sách mới hai quyển bìa đã cũ
nát, lật giở biết là quý thư bèn quyết mua bằng được. Bà cụ đòi 300 đồng, chàng
sinh viên nghèo năn nỉ, rốt cục dứt giá hai trăm. Đem về đọc kỹ mới tá hỏa tam
tinh vì bộ sách những 6 cuốn, đóng thành 3 tập, nhớn nha nhớn nhác thế nào chỉ
thấy hai, mất toi một tập gồm 2 cuốn Sơn thủy và Nhân vật. Tiếc đứt ruột nhưng
giờ bà cụ ve chai ấy biết tìm nơi đâu. Ra chợ Đặng Thị Nhu bao lần dò la nhưng
cả người lẫn sách vẫn bặt âm vô tín. Thôi thì cái duyên nhiều khi nó cứ dở dang
vậy, ngay cả mối duyên với sách. Bù lại bằng chút an ủi, phát hiện ra chủ nhân
của 2 tập sách gần trăm tuổi kia (tính đến thời điểm đó) chính là Thượng Chi
Phạm Quỳnh.
Tôi thắc mắc sao
biết đó chữ ký của cụ Phạm, ông chủ sách đương thời trợn mắt “tao từng nghiên cứu bao nhiêu sách Hán Nôm
cái xứ này, có cả sách của Phạm Quỳnh, chữ ký ấy lẫn đi đâu được”. Nói đến
đây, Cao tiên sinh với tay lên đầu ghế lấy chiếc áo sơ mi mặc vào nghiêm chỉnh,
tôi thấy lạ thắc mắc sao không cởi trần cho mát, y trừng mắt “đọc sách phải đàng hoàng”, sau đó giở
cuốn Thảo tùng ra, chỉ vào trang trái vẽ hai cây trúc quân tử cứng cáp phong
sương, trang phải kèm hai câu viết theo lối chữ triện, đọc sang sảng “kiên phối tùng bách/ kính lăng sương tuyết”
(bền ngang tùng bách/ cứng khinh tuyết sương) rồi cười khà khà: chúng mày thấy
chưa, người đọc những cuốn sách ấy chẳng phải kẻ tầm thường.
Đời sách, tôi nghĩ,
cũng như con người có khi phải trải qua bao dâu bể, số phận thăng trầm. Như
cuốn sách cổ này.
bài viết rất hay, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa